Bà bầu cần có phương pháp thể dục , ăn uống phù hợp, nếu không kiểm soát được đường huyết mới chuyển sang dùng thuốc
.
Bệnh đái đường thời kỳ mang thai chỉ là tình trạng rối loạn dung nạp glucose ở bất kỳ mức độ nào, chỉ xuất hiện , tồn tại trong thời gian người phụ nữ mang thai.
Tuy nhiên, không như các dạng Tiểu đường khác, Đái đường thời kỳ mang thai thường tự động biến mất sau khi bé chào đời.
a) Bệnh đái đường trong giai đoạn thời kỳ mang thai là gì?
Nếu trong khoảng thời gian 6 tuần sau khi sinh, người mẹ bị Đái tháo đường trong thai kỳ vẫn chưa khỏi bệnh thì lúc này được chẩn đoán là Đái đường thật sự và thuộc 1 trong những thể bệnh: Bệnh tiểu đường týp 1 hay týp 2, Bệnh đái đường do dinh dưỡng hay Đái tháo đường triệu chứng. Như vậy, Đái đường thai kỳ chỉ có giá trị chẩn đoán trong thời gian mang thai đến 6 tuần sau khi sinh, ngoài thời gian trên không gọi là Bệnh đái đường thời kỳ mang thai.
Đái tháo đường thời kỳ mang thai tuy không phải bất kỳ người phụ nữ nào khi mang thai cũng mắc nhưng với những người có nguy cơ cao như: Người đang mắc bệnh Đái tháo đường hay đã từng mắc Đái đường thời kỳ mang thai trong lần mang thai trước đó hay những người sinh con có trọng lượng từ 4kg trở lên. Những phụ nữ thừa cân và những phụ nữ từng sảy thai hay tiền sản giật cũng đều là những người thuộc nhóm có nguy cơ cao.
Ngoài ra, những phụ nữ lớn tuổi mang thai, phụ nữ mắc bệnh Huyết áp cao, những phụ nữ có cha hay mẹ hay anh hay chị em ruột từng phải tiêm insulin bổ sung cũng có nguy cơ mắc bệnh Bệnh đái đường thai kỳ.
b) Chẩn đoán như thế nào?
Đái đường thai kỳ là bệnh rất khó phát hiện nếu không khám bệnh và xét nghiệm máu định kỳ, vì bệnh thường không có các biểu hiện mà chúng âm thầm xuất hiện , phát triển. Do đó, để có thể phát hiện sớm và phòng ngừa, khi mang thai tất cả phụ nữ cần phải khám sàng lọc Bệnh tiểu đường thai kỳ.
Trước đây, quan niệm Bệnh tiểu đường là phải xét nghiệm nước tiểu. Nhưng hiện nay, với sự tiến bộ của khoa học y học thì việc sàng lọc dựa vào kết quả xét nghiệm nước tiểu không chính xác, vì trong thai kỳ mặc dù người phụ nữ không bị Bệnh đái đường thời kỳ mang thai nhưng khi xét nghiệm nước tiểu vẫn có đường và trong một số trường hợp mặc dù thai phụ đang mắc chứng Tiểu đường thai kỳ nhưng có lúc không có đường trong nước tiểu.
Đái đường thai kỳ là bệnh hoàn toàn tự khỏi sau khi sinh, mặc dù bệnh không theo suốt cuộc đời của người phụ nữ nhưng vẫn phát hết sức thận trọng để phát hiện và điều trị sớm, kịp thời. Vì nếu không phát hiện và điều trị sớm, kịp thời thì hậu quả của Bệnh đái đường thời kỳ mang thai đối với người mẹ , thai nhi sẽ trở nên rất nghiêm trọng không chỉ trong giai đoạn mang thai mà còn cả trong lúc sinh , ngay cả cuộc sống sau này.
Việc tăng đường máu trong thời kỳ mang thai sẽ làm tổn hại đến thai nhi, nó gây ra những bất thường bẩm sinh, thai to hoặc sảy thai. Trong 6 tháng cuối của thời kỳ mang thai, nếu người mẹ bị tăng đường huyết thì sẽ làm tăng đường huyết cho thai nhi và gây ra tình trạng tăng insulin ở thai nhi.
Do tình trạng tăng insulin , giảm cung cấp đường từ người mẹ nên sau khi sinh cơ thể có tình trạng hạ đường máu ở trẻ nên rất dễ dẫn đến trình trạng tổn thương các tế bào thần kinh não bộ nếu không được điều trị kịp thời. Ngoài ra, thai nhi trên người mẹ Bệnh đái đường thời kỳ mang thai thường có xu hướng to hơn ở người bình thường nên rất dễ có nguy cơ bị sinh non mà trẻ sinh non sẽ có nhiều nguy cơ mắc các bệnh về đường hô hấp, đặc biệt là hội chứng suy hô hấp ở trẻ sơ sinh.
c) Điều trị như thế nào?
Để chữa trị Tiểu đường thời kỳ mang thai, trước hết người mẹ cần có chế độ tập luyện và ăn uống phù hợp, nếu không kiểm soát được đường huyết thì mới chuyển sang điều trị bằng thuốc. Người bệnh Bệnh đái đường thời kỳ mang thai phải được điều trị bằng insulin và được theo dõi chặt chẽ trong suốt quá trình điều trị, tránh gây hạ đường huyết và các tai biến khác
Ngoài ra, Bệnh tiểu đường thời kỳ mang thai sẽ gây nên tiền sản giật do Huyết áp cao, phù, protein niệu... nếu không được kiểm soát tốt đường huyết. Bên cạnh đó, Tăng huyết áp ở người mẹ còn de dọa đến tính mạng của cả mẹ , thai nhi như có thể làm tăng nồng độ cetone máu của người mẹ và tất nhiên thai nhi cũng bị tăng cetone máu cho nên sự phát triển của thai nhi sẽ không được bình thường
Trong thời kỳ mang thai, nếu người mẹ bị Bệnh tiểu đường vẫn phải áp dụng các biện pháp can thiệp như những người bệnh Đái đường bình thường, đó là chế độ ăn uống, tập luyện , sử dụng thuốc.
Trước hết, người bệnh phải xây dựng , thực hiện chế độ ăn uống của người bệnh Tiểu đường nhưng nhu cầu năng lượng của người mẹ phải tùy thuộc vào trọng lượng trước khi có thai cũng như tình trạng tăng cân kể từ lúc mang thai. Từ đó tìm ra nhu cầu thích ứng cụ thể với từng người bệnh Đái đường thời kỳ mang thai. Việc tập luyện ở người Đái tháo đường thai kỳ phải hết sức thận trọng và có sự hướng dẫn, tư vấn của bác sĩ về những động tác , thời gian thích hợp, không được gắng sức, khi đang tập luyện, cảm thấy mệt mỏi thì phải ngừng tập ngay.
Kể cả khi tập luyện , ăn uống hợp lý nhưng vẫn không kiểm soát được đường huyết, thì bắt buộc người bệnh phải dùng thuốc và thông thường là sử dụng insulin, do đó phải tuyệt đối tuân thủ chỉ định của bác sĩ về liều và lượng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét