Huyết áp cao khi mang thai là 1 bệnh lý nguy hiểm, cũng là nguyên nhân gây ra các biến chứng, thậm chí tử vong cho cả mẹ, nhi.
Huyết áp cao khi mang thai là 1 bệnh lý nguy hiểm, cũng là nguyên nhân gây ra các biến chứng, thậm chí tử vong cho cả mẹ, nhi. Có khoảng 15% phụ nữ mang thai bị HUYẾT ÁP CAO, 25% trường hợp đẻ non do HUYẾT ÁP CAO. Trong đó, tiền sản giật, sản giật là 1 trong những biến chứng nguy hiểm nhất.
1) Thế nào là huyết áp cao thai kỳ?
HUYẾT ÁP CAO kỳ có thể được chẩn đoán dựa vào trị số huyết áp đo được hay dựa vào sự huyết áp cao tương đối so với trước khi mang thai. Khi huyết áp trên 140/90mmHg thì được gọi là HUYẾT ÁP CAO. Nếu huyết áp tâm thu tăng trên 30mmHg hay huyết áp tâm trương tăng trên 15mmHg so với mức huyết áp đo được ở thời điểm trước khi mang thai thì cũng được gọi là huyết áp cao kỳ.
Muốn biết chính xác số đo huyết áp phải sử dụng máy đo huyết áp. Mặc dù vậy, nếu phụ chú ý quan sát sức khỏe của bản thân có thể nhận biết qua 1 số dấu hiệu như là: cảm giác căng thẳng, nhức đầu, khó chịu, thấy ù ù trong tai, hoa mắt, chóng mặt, nếu nhìn thấy mờ đi thì bệnh đã nặng. Khi xuất hiện triệu chứng trên thì phải nghĩ ngay đến huyết áp cao do nhiễm độc nghén. Bệnh này thường xảy ra sau tuần mang thai thứ 20.
1 số nguyên nhân gây ra chứng huyết áp cao ở phụ: Tuổi của sản phụ quá cao (trên 35 tuổi). Gia đình có người bị huyết áp cao. Sản phụ quá cân, trước khi mang thaiđã bị bệnh huyết áp cao, viêm thận mạn tính, đái tháo đường. Chế độ dinh dưỡng lúc mang thaichưa tốt, kèm theo đó là chứng thiếu máu trầm trọng. Khi mang thaisinh đôi, sinh ba. Sản phụ có nước ối quá nhiều. Thời tiết thay đổi đột ngột, nóng lạnh thất thường.v.v....
2) Những nguy cơ dẫn đến huyết áp cao thai kỳ
Hậu quả lâu dài trên hệ tim mạch: Những người bị huyết áp cao ở lần mang thaiđầu có nguy cơ cao bị huyết áp cao ở lần mang thaisau. Họ còn có nguy cơ bị cao huyết áp, đột quỵ cao sau này. Những người bị tiền sản giật hay chậm phát triển bào trong buồng tử cung sẽ tăng nguy cơ bị bệnh, nguy cơ tử vong do bệnh thiếu máu cơ tim cục bộ. Thế nhưng, với những phụ nữ đã trải qua thời kỳ sinh nở mà không bị huyết áp cao thì sẽ ít bị nguy cơ mắc bệnh tim mạch hơn những phụ nữ không sinh đẻ. Việc sinh đẻ cũng khiến phụ nữ giảm được nguy cơ mắc bệnh tim mạch về sau này, điều mà nam giới không thể có được.
Tiền sản giật, sản giật: Tiền sản giật thường xảy ra sau tuần thứ 20 của thời kỳ nghén, gây tổn thương ở nhiều cơ quan khác nhau. Trước đây người ta chẩn đoán tiền sản giật dựa vào ba triệu chứng: HUYẾT ÁP CAO, phù nhưng quan niệm hiện đại thì cho rằng chỉ cần có cao huyết áp nghén là đủ để chẩn đoán tiền sản giật. Nguy cơ của thai nhi là chậm phát triển trong buồng tử cung, bị sinh non.
3) Huyết áp cao có thể phòng tránh được không?
Giới y khoa khuyên rằng, phụ nữ mắc các bệnh như hen suyễn, tim, bệnh viêm gan.v.v... thì không nên mang thai. Mặc dù vậy, những phụ nữ bị chứng cao huyết áp vẫn có thể mang. Nếu biết trước trong gia đình có người bị cao huyết áp hay do các nguyên nhân khách quan, họ có thể chủ động phòng tránh bằng 1 số biện pháp như sau:
Tư vấn trước sinh: Phụ nữ bị cao huyết áp trước khi mang thai cần được đánh giá kỹ lưỡng để loại trừ nguyên nhân gây cao huyết áp thứ phát như bệnh lý thận, đánh giá hiệu quả điều trị huyết áp, chỉnh liều thuốc để đạt hiệu quả hạ áp tối ưu. Đặc biệt, họ cần được tư vấn về nguy cơ xuất hiện tiền sản giật, việc phải cao huyết ápy đổi 1 số thuốc nếu họ muốn mang thai an toàn. Phần lớn những phụ nữ bị cao huyết áp đều có thể mang thai, sinh nở bình thường nếu họ được kiểm soát, theo dõi tốt tình trạng huyết áp của mình.
Điều trị bằng thuốc: cao huyết áp cần phải điều trị cho dù cơ chế sinh bệnh là gì. Việc điều trị chủ yếu để phòng tránh biến chứng chảy máu nội sọ. Mặc dù vậy không nên điều trị cao huyết áp quá tích cực sẽ làm giảm việc cung cấp máu cho nhau thai, ảnh hưởng đến sự phát triển của thai nhi. Điều trị những trường hợp cao huyết áp nhẹ, vừa (dưới 155/100 mmHg) có lợi cho mẹ hơn là cho thai nhi trong những ngày đầu của kỳ. 1 số phụ nữ đang được điều trị cao huyết áp từ trước thì khi mang thai có thể giảm hay ngừng thuốc do trong nửa đầu của kỳ, huyết áp sẽ giảm 1 cách sinh lý. Mặc dù vậy, sự giảm huyết áp này chỉ mang tính chất tạm thời, sản phụ cần được theo dõi sát, phải dùng thuốc lại khi cần thiết. Đối với trường hợp bị cao huyết áp nặng (trên 170/110mmHg): Nguy cơ bị biến chứng, tử vong cho mẹ trong những trường hợp (trên 170/110mmHg)nặng, tiền sản giật rất cao. Điều trị hạ huyết áp không có tác dụng ngăn chặn tiền sản giật. Chỉ đình chỉ nghén mới có tác dụng trong trường hợp này nhưng điều trị hạ huyết áp lại có thể làm giảm biến chứng chảy máu nội sọ. Nếu huyết áp trên 170/110mmHg là nặng, điều trị bao gồm kiểm soát tốt huyết áp bằng các thuốc hạ áp đường tĩnh mạch, cố gắng duy trì quá trình nghén đến mức tối đa mà không gây ảnh hưởng gì đến mẹ, nhi.
Dự phòng tiền sản giật khi mang thai: Tiền sản giật có thể dự phòng hay giảm bớt biến chứng nhờ khám định kỳ, thường xuyên. Cần tuân thủ việc điều trị đái tháo đường nghiêm ngặt hay các bệnh nội khoa khác đang có sẵn. Sản phụ có thể nghỉ ngơi tại nhà nếu bệnh nhẹ, tự đếm cử động , tự theo dõi các dấu hiệu trở nặng như phù tăng, lên cân nhanh, nhức đầu nặng, mắt nhìn mờ, đau vùng gan, buồn nôn, nôn nhiều.
Cần nhập viện ngay khi có 1 trong các dấu hiệu trên bởi thực tế lúc nào tiền sản giật biến thành sản giật khó đoán trước được. Nếu xảy ra sản giật, sản phụ có thể rơi vào hôn mê, phù não, xuất huyết não, phù phổi cấp, suy tim, rau bong non gây tử vong cho mẹ, con.
Bệnh cao huyết áp ảnh hưởng lớn đến phụ nữ mang thai, thai nhi, trẻ sơ sinh sau này. Vì thế, việc chẩn đoán sớm, phòng ngừa bệnh có ý nghĩa quan trọng để bảo vệ sức khỏe của phụ nữ mang thai, thai nhi, góp phần làm giảm tỉ lệ tử vong của trẻ sơ sinh. Do đó, sản phụ cần đi khám đều đặn, theo dõi chặt chẽ mọi biến đổi của cơ thể, trong đó có vấn đề huyết áp. Nếu có những biểu hiện cao huyết áp cần đi khám sản khoa, tim mạch để được điều trị kịp thời.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét