Cây bồ công anh còn gọi là hoàng hoa địa đinh, hoàng hoa lan thảo, nha sư (dent de lion).v.v… tên khoa học: Taraxacum offcinal (L.) Weber, thuộc họ nhà Cúc (Asteraceae). Bồ công anh có tác dụng giúp giải tỏa các bế tắc trong gan, túi mật và lá lách, giải độc gan, và là thành phần chính trong các loại thuốc bổ gan có trên thị trường. Dưới đây Sức khỏe đời sống 24h chia sẻ những bài thuốc sử dụng cây bồ công anh.
1) Mô tả cây
Cây thảo sống dai nhờ rễ phụ hình trụ phù to, dài, khỏe, có nhũ dịch trắng. Lá mọc chụm ở đất, không lông, thuôn dài hình trái xoan ngược, chẻ thành thùy nhọn. Cụm hoa hình rổ trên cuống dài 10 tới 30cm, chỉ gồm có các hoa hình lưỡi màu vàng, hàng lá bắc không tính cong xuống. Quả bế có 10 cạnh, có một mỏ dài mang mào lông màu trắng. Cây ra hoa từ tháng 2 - 3 đến tháng 10
Bồ công anh là cây của những vùng ẩm , lạnh của Bắc và Nam bán cầu. Ở Việt Nam, cây mọc hoang dọc theo đường đi, sân vườn, bãi đất hoang, nơi đất ẩm, dựa bờ nước…, ở những vùng núi cao như Đà Lạt, Tam Đảo, Sa Pa.
Người ta thường sử dụng lá non để làm rau ăn tươi như: rau xà lách, chung với rất nhiều loại rau mùi khác, hay luộc chín, nấu canh hoặc chế biến thành món súp chung với những loại rau khác. Lúc dùng, bắt buộc dùng tay xé bé lá, tốt hơn là sử dụng dao cắt, để giữ được mùi thơm của lá.
2) Lá khô được bào chế thành trà, hay khiến nguyên liệu cho những loại thức uống khác.
Vào giữa tháng 4. tới tháng 5, người ta thu hái toàn cây, khi cây chưa có hoa hay bắt đầu ra hoa, loại có nhiều lá, thân và cành màu tím, rễ còn nguyên, là tối đa. Rửa thật sạch, loại bỏ những lá xấu, lá già, vàng úa, đem phơi khô trong râm và bảo quản nơi khô ráo để dùng khiến thuốc.
Dược điển Việt Nam quy định: lá bồ công anh khô có độ ẩm không quá 12% tro toàn phần không quá 9% ngọn có hoa không quá 10% tạp chất hữu cơ (lá cây khác) không quá 1%, tỉ lệ ngọn mang lá và hoa dài quá 20cm, không quá 10..
Trong cây có chứa chlorophylle, chất đắng taraxacin , 1 chất kết tinh taraxacerin, inulin, levulose, mannitol, cholin, saponin, một chất nhựa dầu (1,8%) từ đó tách được các alcool: taraxasterol, homotaraxasterol, cluytianol, các sterol, tinh dầu, caroten, axít folic, axít béo (gồm axít melissic , p. hydroxyphenacetic), các vitamin A, B, C, những chất khoáng Mn, Ca, Fe, P, K, Mg, Na, Si, S.v.v....
Phần lá và hoa chứa các thành phần: nước 8,8g%, protein 0,6g%, carbonhydrat toàn phần 3,7g%, chất sợi 0,44g%, phần chiết được bằng ether 1,6g%, tro 2,3g%, những chất khoáng: phosphor 5lmg%, sắt 3,3mg%, calcium 473,5mg%, vitamin A 6..700 đơn vị quốc tế 100g, vitamin C 73mg%.
Trong lá còn có vitamin B10,19mg%, vitamin B2 0,14mg%, vitamin B6 0,8mg%.
Trong hoa còn có các chất lecithin, violaxanthin, xanthophyl, taraxanthin.
3) Hạt có chứa alcaloid.
Thường được sử dụng chữa áp - xe vú, ít sữa, tiểu tiện khó, nhiễm trùng đường tiết niệu, đau dạ dày, dinh dưỡng không tiêu, mụn nhọt, sưng tấy, lở ngứa ko kể da. Thường phối hợp với những vị thuốc khác.
Ngày sử dụng 20 tới 30 gam cây tươi, rửa thật sạch, ép lấy nước uống, hoặc 12 tới 30 gram cây khô, hãm nước sôi hay sắc uống.
Sử dụng ngoài, đắp trị ung nhọt, mụn cóc, rắn cắn.
Lưu ý: những nếu như âm hư nội nhiệt, hay bị tràng nhạc, ung nhọt đã vỡ mủ, lúc dùng bồ công anh cần thận trọng.
4) Một số bài thuốc có sử dụng bồ công anh
a) Bài thuốc bổ gan, giải độc gan hiệu quả
Giải độc: Rễ Bồ công anh là một trong các thảo dược giải độc tốt nhất. Nó loại thải các chất cặn bã ở gan và túi mật, kích thích thận thải độc tố qua nước tiểu và kích thích giải độc tố đều đặn do nhiễm trùng hoặc chất ô nhiễm. Món rau trộn làm từ lá có thể dùng để giải độc.
Gan: Rễ Bồ công anh có tác dụng giải độc đáng kể gan và kích thích tiết mật. Vị hơi đắng, nó có tác dụng nhuận tràng nhẹ.
b) Chữa sưng vú, tắc tia sữa:
Dùng 60 gram lá bồ công anh tươi, rửa thật sạch, thêm ít muối, giã nát, vắt lấy nước uống, còn bã dùng đắp lên nơi vú sưng đau. Có thể nấu với 750ml nước, sắc còn 300ml, chia hai lần uống trong ngày.
c) Hoặc dùng bài thuốc:
Bồ công anh, kim ngân hoa, 2 thứ lượng bằng nhau 10 tới 200gram. Nấu với một lít nước, sắc còn 300ml, chế vào 50ml rượu trắng, chia 3 lần uống trong ngày, trước bữa ăn.
d) Chữa viêm kết mạc cấp tính, mắt đỏ, sưng đau:
Bồ công anh tươi 30 tới 40 gram, trái dành dành (chi tử) 7 tới 10. trái. Nấu với 750ml nước, sắc còn 300ml, chia hai lần uống sau bửa ăn.
e) Chữa đau răng, sưng chân lợi răng:
Lá bồ công anh 100 g, muối 20gam. hai thứ ngâm qua một đêm, lấy vải màn xô sạch bọc lại, vắt lấy nước cốt, cho vào lọ sạch, nút kín. dùng ngậm hàng. Ngậm đều đặn trong 7 ngày sẽ hết đau nhức răng và giúp khiến cho chặt chân răng.
f) Chữa ăn uống kém tiêu, hay bị mụn nhọt:
Lá bồ công anh khô 10 tới 20 gram. Nấu với 600ml nước, sắc còn 200 ml, chia 2 lần uống trong ngày, trước bửa ăn. bắt buộc uống đều đặn trong vòng 3 tới 5 ngày, có thể kéo dài hơn.
Lưu ý:
Cần phân biệt cây bồ công anh Taraxacum offcinal (L.) Weber với một số cây khác cũng có tên là bồ công anh như sau:
Bồ công anh hoa tím (tử hoa địa đinh), còn gọi là cải ô rô, chicory, diếp xoắn, wild endive (Anh), chicorée (Pháp), có tên khoa học Cichorium intybus L., thuộc họ Cúc.
Bồ công anh nam, còn gọi là bồ công anh mũi mác, diếp hoangc, rau chuôi, rau bồ có, rau bao, diếp trời, có tên khoa học Lactuca andica L., thuộc họ Cúc.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét